Giải thích Luật_Cơ_bản_Hồng_Kông

Luật Cơ bản, Ủy ban Thường vụ có quyền giải thích, tư pháp Hồng Kông trong khi xét xử.[29] Tính đến ngày 7 tháng 11 năm 2016 Ủy ban đã giải thích Luật Cơ bản năm lần.

Trong năm giải thích tới nay chỉ một do Tòa án Chung thẩm yêu cầu, là trong vụ năm 2011 Democratic Republic of Congo v FG Hemisphere Associates LLC và khẳng định thẩm quyền của tư pháp Hồng Kông về hành vi quốc gia, trong các việc khác. Chính phủ Hồng Kông yêu cầu Ủy ban Thường vụ giải thích hai lần các điều khoản Luật Cơ bản về quyền cư trú và nhiệm kỳ Đặc thủ mới năm 1999 và 2005. Ủy ban cũng đã tự mình giải thích Luật Cơ bản trong hai trường hợp, đầu tiên năm 2004 về sửa đổi cách bầu cử Đặc thủ và Hội Lập pháp cho năm 2007 và 2008, thứ hai tháng 11 năm 2016 về các điều kiện tuyên thệ, khẳng định hợp pháp thực chất ấn định ở Điều 104 Luật Cơ bản

Giải thích của Ủy ban Thường vụ không hồi tố,[30] tức các vụ việc đã xét xử rồi đều không bị ảnh hưởng.

Nguyên tắc pháp luật

Các nguyên tắc cơ bản cho giải thích Luật Cơ bản có ở án lệ pháp và Điều 158, theo đoạn 1 thì Ủy ban Thường vụ có quyền giải thích cuối cùng, hợp với quyền thông thường giải thích luật quốc gia Trung Quốc ấn định tại Điều 67(4) Hiến pháp Trung Quốc.[31]:222 Trước khi giải thích ủy ban phải lấy ý kiến của tiểu ban là Ủy ban Luật Cơ bản Khu Đặc chính Hương Cảng.[32]

Tư pháp Hồng Kông cũng được giải thích Luật Cơ bản khi xét xử tố tụng nếu các điều khoản nằm trong tự trị của Khu Đặc chính,[30] cũng có thể giải thích các điều khoản về trách nhiệm của Quốc vụ Viện hoặc về mối quan hệ giữa chính phủ trung ương và Hồng Kông, nếu là Tòa án Chung thẩm trong khi xét xử, giải thích sẽ ảnh hưởng phán quyết và Tòa đã xin giải thích ràng buộc từ Ủy ban Thường vụ về vấn đề.[30]

Để quyết định có nên xin Ủy ban Thường vụ giải thích hay không Tòa án Chung thẩm dùng phương pháp hai giai đoạn dựa trên Điều 158(3), hoạch định trong vụ Ng Ka Ling v Director of Immigration. Bước đầu tiên quan hệ với "điều kiện phân loại", thỏa mãn nếu điều khoản phải giải thích là về hoặc công việc thuộc trách nhiệm Quốc vụ Viện hoặc quan hệ giữa chính phủ trung ương và Hồng Kông;[33]:32–33 những điều khoản này là "loại trừ", tức Tòa Chung thẩm không có quyền giải thích. Khi điều khoản loại trừ giúp tư pháp phân tích điều không loại trừ thì Tòa Chung thẩm không phải xin Ủy ban Thường vụ giải đáp mà dùng "kiểm tra chủ yếu", tòa coi xem điều khoản nào là quan trọng cần phải giải thích trong phiên toà hiện tại.[33]:33 Bước thứ hai là về "điều kiện cần thiết", thỏa mãn nếu tòa cần điều khoản loại trừ phải được giải thích và lời giải đáp sẽ ảnh hưởng phán quyết về vụ kiện.[33]:30-31

Tư pháp Hồng Kông dùng phương pháp mục đích để giải thích Luật Cơ bản. Bởi pháp chế Hương Cảng tách biệt khỏi đại lục nên tòa án phải theo thông luật mà đưa ra giải đáp,[31]:222 phân tích ngôn ngữ của Luật Cơ bản nhằm xem xét bối cảnh, mục đích của điều khoản bằng cách tìm ý định lập pháp,[31]:223-224 nhưng chỉ ý định của nhà lập pháp thì không phải là ý định lập pháp.[31]:223 Những điểm tối nghĩa được giải quyết khi coi các nguyên tắc, mục tiêu của Hiến pháp Trung Quốc và các tài liệu khác.[33]:28 Dù vậy nhưng tòa án coi Luật Cơ bản là "văn kiện linh động" thích ứng với nhu cầu, hoàn cảnh thay đổi.[33]:28[34]:125 Tuy tư pháp có cân nhắc bối cảnh lịch sử của Luật Cơ bản, nhưng cũng xem xét "thật tế lịch sử, chính trị và xã hội mới".[35]:563

Tranh chấp do giải thích

Giải thích của tư pháp Hồng Kông và Ủy ban Thường vụ lôi thôi về mặt chính trị. Trần Hoằng Nghị đã nhận định các giải thích của Ủy ban là "nguyên nhân chính của tranh chấp hiến pháp" kể từ cuộc chuyển giao.[29]:632

Quyền hành hiến định của tư pháp Hồng Kông tranh lần đầu tiên trong vụ HKSAR v Ma Wai Kwan,[36] Tòa án Chung thẩm xử 28 ngày sau cuộc chuyển giao. Nguyên cáo cho rằng Hội Lập pháp Lâm thời thành lập đơn phương trước chuyển giao là vi pháp và mọi luật của cơ quan là vô hiệu. Tòa bác bỏ luận điểm, viện lý do là do tư cách tòa án địa phương nên không có quyền xem xét hành vi của cơ quan chủ quyền;[29]:633 Điều 19 Luật Cơ bản không khuếch trương quyền tư pháp, trong thời kỳ thuộc địa tòa không có quyền xem xét, sau cuộc chuyển giao không có cơ sở gì để thẩm tra. Tuy thẩm phán Lê Thủ Luật đồng ý với phán quyết đa số, nhưng hoài nghi trật tự hiến pháp của Trung Quốc có tương đồng với Anh hay không, nhận xét rằng Hiến pháp Trung Quốc không được xem xét kĩ trong phiên tòa.[36]:352–353 Trần Văn Mẫn bình luận việc thiếu quyền thẩm tra hành vi Quốc hội phản ánh bá quyền lập pháp là học thuyết gốc ở hiến chế bất thành văn,[37]:376 nhưng vì Trung Quốc có hiến pháp thành văn cộng với Luật Cơ bản quy định quan hệ giữa Hồng Kông và chính phủ trung ương khác với Chuyên lợi Tín kiện và Chỉ thị Hoàng gia nên ngờ ở Hồng Kông sau năm 1997 bá quyền lập pháp còn áp dụng hoàn toàn hay không.[37]:377

Trong vụ Ng Ka Ling Tòa án Chung thẩm cố khẳng định có quyền xem xét hành vi của Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc hoặc Ủy ban Thường vụ coi có hợp với Luật Cơ bản hay không.[29]:635

Chính phủ Hồng Kông sau xin Ủy ban Thường vụ giải thích Điều 22 và 24 để phòng ngừa hơn một triệu dân nhập cư đại lục (theo ước tính chính phủ) đổ vào Khu Đặc chính, gây nên tranh luận về độc lập tư pháp ở Hồng Kông

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Luật_Cơ_bản_Hồng_Kông http://www.ejinsight.com/20160105-unanswered-quest... http://mobile.nytimes.com/blogs/sinosphere/2014/06... http://news.xinhuanet.com/english/china/2014-06/10... http://www.basiclaw.gov.hk/en/basiclawtext/chapter... http://www.basiclaw.gov.hk/en/basiclawtext/chapter... http://www.basiclaw.gov.hk/en/basiclawtext/index.h... http://www.basiclaw.gov.hk/en/index/ http://legalref.judiciary.gov.hk/lrs/common/search... http://www.hklii.hk/eng/hk/cases/hkcfa/ http://sunzi1.lib.hku.hk/bldho/